Du nhập vào các quốc gia khác của châu Á Đàn_tranh

Mông Cổ

Đàn tranh yatga của Mông Cổ với hộp điều âm được mở ra bên cạnh chiếc cờ lê

Yatga ᠶᠠᠲᠤᠭ᠎ᠠ yatug-a, tiếng Mông Cổ: ятга yatga; phát âm [ˈjɑtʰəq]; tiếng Trung: 雅托葛)là loại đàn tranh của người Mông Cổ.Yatga có thể khác nhau về kích thước, điều chỉnh số lượng ngựa đàn và dây; Thân đàn là một hộp gỗ dài, một đầu của nó được đặt nghiêng xuống. Người biểu diễn cắm dây bằng móng tay của bàn tay phải; tay trái được sử dụng để tạo áp lực lên dây đàn, thay đổi nốt nhạc. Tay trái cũng có thể được sử dụng để chơi các dải bass mà không cần plectrum (picks). Tùy thuộc vào kiểu dáng, các dây có âm sắc cao hơn được chọn bằng ngón tay hoặc bằng cách chọn. Loại yatga phổ biến nhất trong sử dụng đương đại là phiên bản 21 dây. Loại yatga này còn được gọi là "Master Yatga." Chiều dài của một nhạc cụ kích thước đầy đủ là 1,62m hoặc 63 inch. Các phiên bản ngắn hơn được lên nốt cao hơn. Một phiên bản 13 dây được gọi là "Gariin Yatga" (Hand Yatga).

Các yatga có nguồn gốc từ cổ tranh Trung Quốc. Trong lịch sử, phiên bản 12 dây được sử dụng tại triều đình vì lý do tượng trưng; 12 dây tương ứng với 12 cấp bậc của cung điện. Những người bình dân đã phải chơi trên một yatga 10 dây. Việc sử dụng phiên bản 12 dây trở lên được dành riêng cho triều đình và tu viện.

Sử thi truyền thống của người Mông Cổ, Janggar kể về câu chuyện của một nàng công chúa trẻ đã từng chơi trên một chiếc yatga 800 dây với 82 con nhạn; cô ấy được cho là chỉ chơi ở 7 ngựa đàn thấp hơn.

Nhật Bản

Koto (tiếng Nhật: 箏), đôi khi gọi là Sō (tranh) là loại đàn tranh phổ biến nhất của xứ sở mặt trời mọc.

Một nghệ sĩ đang chơi đàn koto

Những phát hiện khảo cổ học cho thấy từ thời Yayoi hoặc Nara ở Nhật Bản đã có loại đàn 6 dây hoặc 5 dây được người Nhật gọi là Wagon hoặc Yamatogoto (đều viết là 和琴) giống với đàn koto ngày nay. Dân tộc Ainu ở Nhật Bản có đàn truyền thống giống đàn koto. Có thuyết cho rằng đàn này có nguồn gốc từ cây đàn do Mông Điềm, người nước Tần, sáng chế (xem đàn koto phần history).Từ thời cổ, Koto được gọi là "Wagon" (Hòa cầm) hay "Yamato goto" (Đại Hòa cầm) và là một loại nhạc cụ trong Nhã nhạc.

Triều Tiên và Hàn Quốc

Gayaeum


Một nghệ sỹ chơi đàn gayageum loại 12 dây

Gayageum (hangul:가야금, Hán Việt: Già da cầm) là đàn tranh của Bắc HànNam Hàn. Theo Tam quốc sử ký (hangul:삼국사기) của Đại Hàn ghi lại về xuất xứ của đàn tranh 12 dây Gayageum. Trước khi có đàn tranh gayageum, người Triều Tiên có loại đàn gọi là Đại tranh (Daejaeng 대쟁; Hanja: 大箏). Trong thời đại Cao Ly, nó được sử dụng hoà tấu trong dàn nhạc nhã nhạc Gugak. Sau đó, ở Cao Ly, chủ yếu:

1) Chỉ được sử dụng cho nhạc Munmyo. Kích thước đàn chơi cho nhã nhạc và chính thống hiện tại.

2) Nó dường như lớn hơn một chút so với gayageum.Mặt đàn được làm bằng gỗ cây ngô đồng và đáy đàn được làm bằng gỗ hạt dẻ. Độ dày của dây lớn hơn gayageum, dày nhất và dần dần mỏng hơn, đạt 15 dây. Sự xuất hiện của nó tương đương đàn tranh dùng vĩ kéo Ajaeng, mặt uốn cong được uốn cong xuống phía dưới giữa đuôi đàn với giá đỡ.

3) Với gỗ đen ở bốn góc và không có hình ở giữa. Một số điều chỉnh và chuyển ngữ có các dây tạo ra hai âm sắc trong một bản nhạc, như cách thể hiện trong dàn nhạc chính thống gugak.

4) Trong triều đại Joseon, nó chỉ được sử dụng ở Dangak. Họ đã sử dụng các sợi tơ đầy màu sắc hoặc sợi bông màu xanh lam.

Gayageum được Gasilwang (가실왕 Gia Tất Vương) của vương quốc Gaya sáng chế. Trên thực tế, khi nhắc đến đàn tranh 12 dây Gayageum, thì người Hàn Quốc nhớ tới tên nhạc gia Wureuk (우륵 Vu Lặc), hơn là vua Gasil. Truyền rằng, Gaya là một vương quốc được hình thành từ 12 bộ tộc dùng các ngôn ngữ khác nhau. Lo ngại việc các bộ tộc không thể thông tin và hiểu nhau do khác biệt về ngôn ngữ, vua Gasil đã chế tác đàn tranh 12 dây Gayageum và ra lệnh cho nhạc gia Wureuk sáng tác nhạc phẩm, với niềm tin âm nhạc sẽ kết nối hiệu quả hơn ngôn ngữ. Hiểu ý nguyện của nhà vua, nhạc gia Wureuk đã sáng tác 12 nhạc phẩm. Đó là câu chuyện trong thế kỷ thứ VI. Tới nay, sau 1500 năm, đàn tranh 12 dây Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Vua Gasil của vương quốc Gaya những mong dùng âm nhạc để đoàn kết lòng dân và dẫn dắt quốc gia, nhưng thời thế đã không thuận theo mong ước của Gaya. Trước sự lớn mạnh của vương triều Silla, trong lúc vận mệnh của Gaya như ngọn đèn dầu trước gió, nhạc gia Wureuk đã mang cây đàn tranh 12 dây Gayageum tới Silla tị nạn. Không có sử sách nào ghi lại lý do nhạc gia Wureuk đưa ra quyết định này. Nhưng có lẽ là một nhạc gia, ông đã lựa chọn cách này để bảo vệ âm nhạc trước nguy cơ biến mất của âm nhạc một nước bại trận. Vua Jinheung (진흥 Chân Hưng) của Silla (Tân La) đã nhiệt liệt chào đón nhạc gia Wureuk, nhưng các quần thần lại kịch liệt phản đối vì lo ngại quốc gia sẽ trở nên rối ren nếu đưa vào sử dụng âm nhạc của một vương quốc vong tàn. Là một vị vua có tầm nhìn xa và quyết đoán, mặc dù vấp phải sự phản đối của quần thần, nhưng vua Chân Hưng vẫn cử ba người theo học âm nhạc và vũ đạo của nhạc gia Vu Lặc. Sau khi kế tục hoàn thiện âm nhạc của nhạc gia, các nhạc công trẻ đã sáng tác mới và tóm tắt 5 nhạc phẩm tiêu biểu nhất dành cho đàn tranh 12 dây Gayageum. Nói một cách khác, là họ đã diễn tấu âm nhạc Gayageum theo lối Tân La. Ban đầu, nhạc gia Vu Lặc đã nổi giận do học trò của mình đơn phương cải biến nhạc phẩm chính ông sáng tác. Song nghe xong bản nhạc biến tấu của học trò, Vu Lặc đã có lời bình rằng "Bản nhạc nghe vui nhưng không quá mức, có đoạn buồn nhưng không cảm thấy bi ai. Có thể nói đây là một loại hình âm nhạc mẫu mực, các trò có thể trình diễn trước quân vương”.

Các loại gayageum bao gồm: gaeryang gayageum (개량 가야금) có 17 dây, beopgeum (법금 Pháp cầm) 12 dây và nó còn gọi là pungyu gayageum (풍류 가야금), sanjo gayageum (산조 가야금), jeongak gayageum (정악 가야금) 18 dây, gayageum 25 dây (25 현 가야금).

Trong đó, lịch sử của loại gaeryang gayageum bao gồm các loại sau:15 dây: Gayageum đã được mở rộng bằng cách tăng số dây đàn tranh gayageum hiện có từ 12 lên 15 dây. Năm 1967, Sung Geum Ryun, nổi tiếng với gayageum Sanjo, được diễn tấu nhiều.

17 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Hwang Byung-ju. Gayageum truyền thống là jeongak là Gayageum jeongak, Sanjo và dân gian âm nhạc, do sự phối hợp khác nhau cho Sanjo Gayageum 17 dây. Còn jeongak gayageum khi diễn tấu có nét tương đồng với âm sắc nhã nhạc cung đình Huế, nhất là khi diễn tấu bản nhạc Junggwangjigok Taryeong 중광지곡 타령.

18 dây: Gayageum nhằm mục đích mở rộng phạm vi bằng cách tăng số lượng dây lên 18. Nó được phát triển bởi Park Il-hoon vào năm 1988.

21 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Lee Sung-Chun. Số lượng dây gayageum đã được tăng lên rất nhiều, mở rộng phạm vi.

22 dây: Loại này tăng số dây gayageum lên 22. Park Bum-hoon được cải tạo vào năm 1995 để kỷ niệm buổi hòa nhạc thành lập Dàn nhạc truyền thống Quốc gia Hàn Quốc.

23 dây: Dahyun gayageum được phát triển bởi người chơi gayageum Cheon Ik-chang. Gayageum được sử dụng bởi Cheon Ikchang, con trai của Cheon Ik-chang, là 23 và 25 dây.

Geomungo

Đàn tranh geomungo truyền thống 6 dâyĐàn tranh geomungo loại 11 dây

Geomungo (거문고)Theo sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo của Hàn Quốc được ghi trong sử sách, xưa kia dưới thời Cao Câu Ly ở Hàn Quốc, có một cây đàn được gửi sang từ cổ cầm Trung Quốc nhưng người Cao Câu Ly khi đó không biết đây là loại nhạc cụ gì và cách tấu ra sao. Thấy vậy, tể tướng Vương Sơn Nhạc (왕산악) liền cải tiến cây đàn và sáng tác một thể loại âm nhạc mới có thể tấu với cây đàn. Khi âm thanh của cây đàn vang lên trầm bổng, du dương thì một chú hạc đen từ đâu bay tới nhún nhảy trên nền âm điệu mới mẻ này. Điểm nhấn trong sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo không phải là sự xuất hiện của loài hạc đen trên thế gian này, mà ở chỗ đến hạc cũng phải cao hứng nhảy múa khi nghe tiếng đàn tranh 6 dây geomungo do tể tướng Vương Sơn Nhạc diễn tấu. Ở phương Đông, hạc là loài vật tượng trưng cho sự thái bình, thịnh vượng. Âm nhạc giao hòa cùng thiên nhiên, tạo nên khung cảnh thái bình, yên vui, nơi con người và loài vật cùng chung sống trong hòa bình và yêu thương chính là niềm mong ước của người xưa gửi gắm qua cây đàn tranh 6 dây Geomungo.

Dodeuri là thể loại âm nhạc thường được chơi bằng đàn tranh 6 dây geomungo. Âm nhạc Dodeuri có sáu phách trong một nhịp, tốc độ vừa phải, không nhanh cũng không chậm. Mỗi phách mang một âm và các âm sắc cũng hết sức chân phương, có thể sẽ khiến những người sống trong xã hội hiện đại đã quen với những âm điệu nhanh và hào nhoáng, cảm thấy nhàm chán. Nhưng những điều phức tạp, hào nhoáng, cũng giống như những món ăn có gia vị mạnh thì thi thoảng chúng ta mới thưởng thức, còn những món có vị thuần và nhạt như cơm hay nước thì ngày nào, bữa nào chúng ta cũng cần tới. Những điều giản dị, không tô vẽ, thêm thắt mà chỉ thuần túy như bản chất vốn có, sẽ mang lại sự bình an trong tâm hồn của mỗi con người, và đây chính là lối sống mà giới học giả xưa ở Hàn Quốc hướng tới. Thứ âm nhạc giúp con người ta có thể cảm nhận được thế giới tâm hồn này chính là âm nhạc được tấu bằng cây đàn tranh 6 dây Geomungo. Giới khoa học ngày nay đã phát hiện ra hình khắc vẽ một loại nhạc cụ trông gần giống với cây đàn tranh 6 dây Geomungo được vẽ trên bức tường mộ thời Goguryeo, trước cả thời của tể tướng Wang San-ak. Việc cải tiến nhạc cụ được mang tới từ Trung Quốc trở thành nhạc cụ của Goguryeo thể hiện quá trình dịch chuyển, biến đổi và phát triển của “văn hóa”.

“Geomungo Byeongchang” - Thể loại âm nhạc vừa hát ả đào vừa tấu đàn tranh 6 dây geomungo trong âm nhạc truyền thống của Hàn Quốc, thể loại âm nhạc vừa tấu đàn vừa hát được gọi là byeongchang. Người nghệ sĩ theo đuổi thể loại âm nhạc này sẽ vừa phải hát hay lại vừa phải đàn giỏi. Người khởi xướng dòng nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát “Geomungo Byeongchang” chính là nghệ nhân Shin Kwae-dong. Giờ đây, chỉ còn một học trò duy nhất của nghệ nhân Shin Kwae-dong có thể trình diễn hoàn hảo lối âm nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát ả đào byeongchang này. Trong một thời gian dài, đàn tranh 6 dây Geomungo đã từng là loại nhạc cụ ưa thích của giới học giả ở Hàn Quốc. Ở cuối thời đại Joseon, cây đàn tranh 6 dây Geomungo được dùng để chơi các thể loại âm nhạc dân gian, thể hiện mọi cung bậc cảm xúc tâm hồn của con người như niềm vui, nỗi buồn, niềm hạnh phúc, sự tức giận, khiến giới học giả bất bình và tặc lưỡi cho rằng đàn tranh 6 dây Geomungo đã hết thời.

Việt Nam

Nghệ sĩ chơi đàn tranh trong đờn ca tài tử


Nguồn gốc đàn tranh Việt Nam là đàn tranh giống như đàn sắt và đàn cổ tranh nhưng vì loại đàn tranh truyền thống của Việt Nam là 16 dây nên xuất xứ của nó chínhlà đàn thập lục cương huyền tranh (giản thể: 十六钢弦筝; phồn thể: 十六鋼弦箏; bính âm: Shíliù gāng xián zhēng) từ Triều Châu,Trung QuốcĐài Loan truyền sang nước Việt có thể từ đời nhà Trần hay trước nữa, dùng trong dân gian dưới dạng 15 dây,16, 17 dây và 22 dây từ xưa đến giờ thay đổi số dây từ dây tơ sang dây cước (dây đồng) đến dây thép và cải biên thêm trục đàn để mắc dây. Đây là điểm đặc biệt của đàn tranh Việt Nam và Đài Loan có được mà các loại đàn tranh Á Đông khác không hề có. Riêng loại 16 dây tại Đài Loan có trước tiên.Qua 7, 8 thế kỷ, người nước Việt dùng và bản địa hóa nó, tạo cho nó phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang âm điệu thức, biến nó trở thành một loại nhạc cụ bản địa mang tính dân tộc, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam.[3]